Alfred Detlef Fritz Kahl sinh năm 1877, đến từ một ngôi làng nằm ở phía Bắc Hamburg, nước Đức. Ông vốn dĩ là một Giáo viên Trung học, dạy môn Tiếng Anh, Tiếng Pháp và Lịch Sử Tự Nhiên. Tuy nhiên, những đóng góp đáng kể của ông cho nền Vi Sinh học khiến cả thế giới phải ngả mũ thán phục

Cơ duyên đến với ngành Nghiên cứu Sinh vật học của Kahl khởi nguồn từ chính con gái ông, Lucia. Lucia từng tham gia 1 số khoá học về nghiên cứu Sinh vật Đơn bào tại Học Viện Nhiệt đới Hamburg. Trong một tác phẩm của ông, Kalh đề cập, “Những nghiên cứu về Sinh Vật Đơn Bào của Lucia thực sự hay ho, chúng khơi dậy niềm hứng thú trong tôi và khiến tôi muốn tìm hiểu sâu hơn về lĩnh vực này”
Từ đó, Kalh cống hiến mình cho nền khoa học. Ông lấy nước từ một cái ao gần nhà, mua một chiếc kính hiển vi và bắt đầu công cuộc nghiên cứu của mình. Sử dụng kính hiển vi trường sáng và ống nghiệm để lấy một mẫu vật riêng lẻ và xem nó ở độ phóng đại thấp nhất và không có nắp trượt, ông ấy có thể thu thập thông tin về hình dạng và chuyển động tổng thể của sinh vật. Sau đó, ông ấy sẽ dán vào 1 tấm bìa vải dạ, lấy một cây kim, nhẹ nhàng đẩy các cạnh xuống cho đến khi chiếc kẹp bìa tạo áp lực vừa đủ để làm cho sinh vật bất động, nhưng không quá mạnh để mức phiến kính không bóp chết nó.

Quá trình này rất tinh vi và cần thời gian để thành thạo, nhưng cuối cùng nó cũng thành công. Kahl ước tính rằng ông mất khoảng 9 tháng để cảm thấy tự tin vào khả năng vẽ và nhận dạng của mình. Và từ đó, ông đã dốc hết sức lực. Chuyên khảo đầu tiên của ông được xuất bản vào năm 1926, khi ông 49 tuổi. Ấn phẩm cuối cùng của ông được xuất bản vào khoảng năm 1935. Và trong khoảng thời gian đó, ông đã xuất bản 21 bài báo tổng cộng 1800 trang mô tả và minh họa về khoảng 700 loài tảo mới.
Để tham khảo, vào năm 1974, nhà vi sinh vật học John O. Corliss đã mô tả những gì ông nhìn thấy ba tuổi phân loại của loài tảo. Thời kỳ đầu tiên kéo dài khoảng từ 1880-1930,
và ông đặt tên cho nó là thời đại khám phá. Các nhà khoa học trong thời kỳ đó đã phát hiện ra khoảng 500 loài. Trong một thập kỷ, Kahl đã tăng hơn gấp đôi con số đó.
Tất nhiên, Kahl đã được hưởng lợi từ những tiến bộ trong kỹ thuật kính hiển vi và thí nghiệm, xây dựng một cơ sở tài liệu sẵn có. Kalh chủ yếu làm việc một mình, nhưng nhờ sự cẩn thận tỉ mỉ anh ấy có lẽ đã khám phá ra nhiều loài tảo bất kỳ ai khác từng có.
Đóng góp của Kahl không chỉ dừng lại ở việc khám phá ra các loài mới. Thời đại khám phá tảo lần thứ hai, kéo dài từ năm 1930 đến năm 1950, được đánh dấu không phải bởi nhu cầu phát hiện ra các loài mới, mà để hiểu cách phân loại chúng tốt hơn. Chỉ đến cuối những năm 1930, đã có khoảng 3.000 chi nhánh được biết đến để phân loại, dẫn đến việc tạo ra các đơn vị phân loại và chi mới mà một số người đã gọi là phân loại Kahlian vì ông đã cẩn thận phân loại và dán nhãn cho nó.
Tất nhiên, mặc dù giống như nhiều nỗ lực phân loại vi sinh vật, những nhãn này sẽ trải qua những thay đổi lớn trong các thời đại nghiên cứu sau này. Kỷ nguyên thứ ba mà Corliss mô tả kéo dài từ năm 1950 đến năm 1970, và kỷ nguyên này sẽ áp dụng các kỹ thuật tiên tiến lúc bấy giờ để cải thiện mối quan hệ giữa khoảng 6.000 loài. Hệ thống phân loại của Kahl có thể không tồn tại lâu dài, nhưng nó vẫn mang giá trị riêng.
Alfred Detlef Fritz Kahl qua đời năm 1946, không có bất kỳ 1 cáo phó hay mộ phần nào được tìm thấy cho đến hiện tại.
Bình luận